Nước biển miền Trung "đạt chuẩn" cho tắm và nuôi trồng thủy sản
- Thứ hai - 22/08/2016 21:14
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Sáng 22/8, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các đơn vị tổ chức hội nghị công bố kết quả đánh giá hiện trạng môi trường biển từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế. Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, để đánh giá chất lượng biển sau sự cố xả thải của Công ty Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh, Bộ đã thành lập hội đồng thẩm định gồm các nhà khoa học về môi trường sinh học biển, thủy văn, hải dương học, hóa học, cùng đại diện các bộ ngành liên quan, tiếp thu ý kiến phản biện của một số chuyên gia trong và ngoài nước.
Ông Hà bày tỏ hy vọng cùng với sự nỗ lực của các bên, môi trường và các giá trị về kinh tế, sinh thái và nhân văn của dải ven biển miền Trung sẽ sớm được phục hồi, người dân miền Trung sẽ có cả thép, cả cá và cả một môi trường biển sạch, đẹp, an toàn.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà. |
GS.TS Mai Trọng Nhuận, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, đại diện nhóm chuyên gia nghiên cứu, trình bày kết quả đánh giá hiện trạng môi trường biển tại 4 tỉnh từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.
Về chất lượng nước biển, sau khi phân tích 1.080 mẫu (tháng 5), 331 mẫu (tháng 6) và 68 mẫu kiểm chứng (tháng 8), so sánh đối chiếu với quy chuẩn Việt Nam, nhóm chuyên gia cho biết các thông số lý hóa, dinh dưỡng, kim loại nặng cơ bản trong giới hạn cho phép, đảm bảo đối với vùng bãi tắm, thể thao dưới nước, nuôi trồng thủy sản.
Các thông số sắt, phenol và xyamua - nguyên nhân chính gây ra sự cố môi trường giảm đáng kể và nằm trong giới hạn cho phép. Cụ thể, quan trắc tháng 5 có 3,8% số mẫu sắt vượt giới hạn cho phép, chủ yếu ở Hà Tĩnh và Quảng Bình. Một tháng sau, lượng mẫu sắt vượt giới hạn chỉ còn 1,8% , chủ yếu ở tầng đáy. Điều này cho thấy, sắt trong nước biển đã giảm đi đáng kể, số lượng mẫu vượt giới hạn cho phép cũng giảm.
Hàm lượng xyanua đạt 0,002-0,1 mg/l (tháng 5) nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép. Riêng thông số tổng phenol trong tháng 5 hầu như không phát hiện được hoặc có giá trị thấp (2-10 mg/l), nhưng tháng 6 có 2,7% số mẫu vượt giới hạn cho phép, chủ yếu là tầng đáy. Điều này là do cơ chế nhả hấp phụ phenol từ dạng phức hỗn hợp và từ trầm tích đáy vào nước biển. Đến tháng 8/2016, phenol trong nước biển giảm đến giá trị nhỏ hơn giới hạn cho phép.
Về chất lượng trầm tích biển, nhóm chuyên gia đã phân tích 29 mẫu tháng 5 và 146 mẫu trầm tích bề mặt, 16 điểm mẫu cột trầm tích tháng 6, cũng cho giá trị nằm trong giới hạn. Hàm lượng tổng phenol và xyanua giảm rõ rệt theo thời gian. Nếu như tháng 5 phenol kaf 6-12,5 mg/kg thì tháng 6 giảm còn 0,35-1,2 mg/kg. Tương tự, xyanua từ 0,16-0,3 mg/kg tháng 5 giảm 0,11-0,21 mg/kg tháng 6.
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra tại các khu vực thuộc Sơn Dương - Hà Tĩnh (khoảng 300 km2), cửa Nhật Lệ - Quảng Bình (khoảng 330 km2), hòn Sơn Chà - Thừa Thiên Huế (khoảng 160 km2) có thông số cao hơn khu vực khác, nhưng vẫn nằm trong giới hạn cho phép. Nguyên nhân chịu tác động của dòng xoáy cục bộ.
Về tồn lưu trong màng bám hệ keo sắt, nhóm nghiên cứu thực hiện tại 9 khu vực có rạn san hô và các dạng nền đáy khác trong vùng biển Hà Tĩnh - Thừa Thiên Huế với 63 điểm khảo sát. Kết quả, thời điểm khảo sát tháng 4 và tháng 5, trên bề mặt đá và các rạn san hô có hiện tượng lớp bột màu vàng phủ bám. Hàm lượng phenol trong màng bám hệ keo sắt có giá trị cao, dao động 3,80-7,79 ppm.
Tháng 6 và 7, vẫn còn hiện tượng lớp màng màu vàng bám trên bề mặt đá, rạn san hô và các khe đá tại các khu vực có rạn san hô, rạn đá ngầm, nhưng đã giảm đi nhiều. Trên nền đáy bùn và đáy cát hầu như không còn phát hiện được lớp màng bám này. Hàm lượng phenol trong màng bám hệ keo sắt ở 9 khu vực giảm mạnh, khoảng 0,32-1,75 ppm. Nhiều nơi lượng phenol giảm trên 90% như hòn Sơn Dương, Chân Mây...
Về hệ sinh thái, phân tích 3.156 mẫu thuộc các nhóm sinh vật phù du, động vật đáy, san hô, cá biển..., nhóm nghiên cứu cho biết, tháng 4 và 5, rạn san hô là đối tượng bị ảnh hưởng mạnh nhất trong các hệ sinh thái biển. Nhưng đến tháng 6 và 7 không còn hiện tượng trên, san hô bắt đầu phục hồi tự nhiên, cá kích thước nhỏ có dấu hiệu trở lại với mật độ dày hơn.
Về chất lượng hải sản đánh bắt, theo số liệu giám sát của Bộ Y tế, từ 28/4 đến 8/8 hàm lượng một số chất ô nhiễm trong hải sản đã giảm dần theo thời gian.
Cá nhỏ đã quay về, không nên đánh bắt
TS Friedhelm Schroeder: "Chiều nay tôi sẽ đến biển miền Trung bơi". |
Sau khi nghe báo cáo nghiên cứu, tiến sĩ Friedhelm Schroeder, 40 năm nghiên cứu về môi trường ở Đức đánh giá, chương trình giám sát, phân tích lần này của Việt Nam rất kỳ công, chính xác, tin cậy với phương pháp đánh giá ngang bằng với các nước tiên tiến như Mỹ, châu Âu. "Để chứng minh cho quý vị, chiều nay tôi sẽ ra biển bơi vì tôi rất thích bơi lội", ông nói.
Chia sẻ vui mừng khi cá nhỏ đã quay trở lại biển miền Trung, chuyên gia này cho rằng thời gian tới Việt Nam cần giữ được các loài cá nhỏ, không được đánh bắt ngay, và phải thu hút các nguồn lợi thủy sản khác. Một vài nơi còn phenol thì cần tiếp tục được rà soát, lấy mẫu phân tích. Trong tương lai chúng ta phải kiểm soát tốt không chỉ ở Fomosa mà nhiều tỉnh khác, phải đảm bảo công nghệ xử thải cao và khả năng ứng phó với thảm họa.
Biển tự sạch là quy luật tự nhiên
GS.TS Trần Nghi, người nhiều năm nghiên cứu môi trường, trầm tích biển, đánh giá đây là kết quả nghiên cứu bước 1, chờ nghiên cứu bước 2 lúc đó mới có kết luận khi nào môi trường 4 tỉnh thật sự có thể đánh bắt, cá ăn được, biển trở lại bình thường. "Đây chưa phải là kết thúc nghiên cứu để trả lời thỏa đáng cho dân, nhưng tôi đánh giá cao cách tiếp cận nghiên cứu của tác giả", ông Nghi nói.
Về các thông số ô nhiễm giảm, ông Nghi giải thích, sắp tới biển sẽ sạch trở lại như trước vì đó là quy luật. "Việc này tôi không phải động viên hay có tính chất chính trị gì cả. Trước đây khi sự cố môi trường xảy ra, tôi cũng về Quảng Bình, chính những người thân của tôi cũng tỏ ra rất bức xúc vì môi trường biển bị hủy hoại, tuy nhiên sau những quy trình đánh giá khoa học, khách quan cho thấy biển sẽ sạch là hoàn toàn tự nhiên", ông nói.
Theo tiến sĩ Trinh Văn Tuyên (Viện Công nghệ Môi trường), thời gian tới không nhất thiết phải quan trắc nhiều điểm, nhiều chỉ tiêu, mà chỉ nên tập trung vào một số điểm còn tích tụ chất độc, giám sát và phân tích xem đã an toàn chưa. Ngành tài nguyên cần giám sát môi trường ở khu vực Formosa để không để xảy ra sự cố như trước đây nữa.
Còn nhiều yếu tố chưa được làm rõ